Đơn vị thiết kế
Liên kết website
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 1.051.443
Truy cập hiện tại 963
Tìm kiếm
Thông tin đường phố Huế
Giải bài toán về nguồn nhân lực và chất lượng dân số
Ngày cập nhật 21/06/2013

Theo thống kê mới được công bố về điều tra biến động dân số thì dân số Việt Nam đã có 88,5 triệu người, trong đó dân số thành thị là 28,5 triệu người (chiếm 32,3%), nam chiếm 43,7 triệu người (chiếm 49,5%), đáng chú ý là dân số Việt Nam có xu hướng già đi thấy rõ thể hiện tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi năm 1999 còn ở mức 33,1% thì năm 2012 chỉ còn 23,9% (giảm 10%), chỉ số già hóa dân số tăng từ 24,3% (1999) lên đến 42,7% (2012), số lượng người già từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số Việt Nam.
 


    Trong nhiều năm trước đây, Việt Nam xếp thứ 12 các nước đông dân trên thế giới, hiện nay xếp thứ 14 chứng tỏ qui mô dân số đã giảm dần. Đối với các nước Đông Nam Á, nước ta đông dân chỉ sau Indonesia và Philipin. Một số chỉ tiêu liên tục trong nhiều năm liền đã được cải thiện theo xu hướng giảm dần như tỉ suất sinh (năm 2012 Việt Nam 20,5o/oo, Thừa Thiên Huế 15,91o/oo), tỉ lệ đẻ con thứ 3 trở lên (năm 2012 Việt Nam        14,2%, Thừa Thiên Huế 16,5%), tỉ lệ tăng dân số tự nhiên (năm 2012 Việt Nam 1,2%, Thừa Thiên Huế 1,12%). Mặt khác, Việt Nam đang ở giai đoạn “dân số vàng” cũng là một lợi thế về nguồn nhân lực cần tận dụng cơ hội này.

    Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số chỉ tiêu cần được lưu ý :

    Số con trung bình (T.F.R) của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) đạt dưới mức sinh thay thế (2 con) ở một số địa phương như TP.Hồ Chí Minh 1,33, Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Cà Mau ... khoảng 1,6 con. Đây là mức sinh dự báo của Việt Nam trong tương lai. Hiện nay mức sinh của Việt Nam là 1,99 con, thấp dưới mức sinh thay thế (2 con). Các chuyên gia dân số cho rằng, không quá sớm để chúng ta tính đến việc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với tình hình giảm sinh trong chiến lược DS-KHHGĐ. Nhưng trước mắt vẫn phải làm tốt chính sách giảm sinh để đạt mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc. Vấn đề giảm sinh đi liền với già hóa dân số tăng nhanh và nhu cầu nguồn nhân lực phải được đặt ra để phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Hiện nay với sự khác nhau về mức sinh giữa các vùng miền, nghành DS-KHHGĐ phải có cách làm cụ thể thích hợp với từng địa phương để thể hiện sự ứng xử phù hợp.
 


    Mất cân bằng giới tính khi sinh đã được đặt ra cấp thiết trong thời gian qua với các giải pháp để khắc phục. Đây là vấn đề có tính chất thời sụ trong công tác dân số. Các địa phương tỉ lệ bé trai/100 bé gái từ 116-126, có nơi đã lên đến 130/100. Thừa Thiên Huế tỉ lệ này còn trong giới hạn cho phép là 110-116/100. Qua đó cho thấy việc thay đổi hành vi xem trọng giới tính nam không phải dễ dàng. Nếu không điều chỉnh tốt sẽ dẫn đến hậu quả thiếu con dâu người Việt trong tương lai gần !

    Thực tế hiện nay, một vấn đề phải được tính đến là việc di dân cơ học từ các vùng quê đổ về các thành phố, nhất là các thành phố lớn, làm thay đổi mật độ dân số, cơ cấu lao động, nguồn nhân lực, gây sức ép về phân bổ dân cư trong quá trình đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh.

    Chất lượng dân số là mục tiêu phấn đấu của chúng ta hiện nay để phát triển nòi giống. Chất lượng dân số gắn liền với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội bền vững, gắn liền với già hóa dân số, bảo đảm các chính sách an sinh phúc lợi xã hội, với sức khỏe tiền hôn nhân, chăm sóc sức khỏe sinh sản, sàng lọc thai nhi trước sinh và sơ sinh sau sinh. Đây là những nội dung cơ bản cần tập trung phấn đấu ngày một tốt hơn vì thế hệ hôm nay và mai sau. Chất lượng dân số luôn gắn liền với nguồn nhân lực và sự phát triển bền vững.
 

Nguyễn Cương - Chi bộ 4
Tin mới
Các tin khác
Xem tin theo ngày