Theo đó, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, giờ giấc sinh hoạt…); tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất; tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình (tranh chấp từ quan hệ vợ, chồng; cha mẹ và con; ông bà và cháu; giữa anh chị em…; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn…); vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính; vi phạm pháp luật hình sự khi vụ án không bị khởi tố theo quy định Điều 107 Bộ luật Tố tụng Hình sự hoặc vụ án được pháp luật quy định chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng người bị hại không yêu cầu hoặc vụ án đã được khởi tố nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và các vụ án trong các trường hợp này không bị xử lý hành chính và vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, biện pháp hòa giải ở cơ sở còn được áp dụng trong những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định không hòa giải ở cơ sở đối với các trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình theo quy định phải được cơ quan có thẩm quyền giải quyết; giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; tranh chấp về thương mại hoặc lao động thực hiện hòa giải theo quy định của Luật Thương mại, Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn…
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/04/2014 và thay thế Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999.