Đơn vị thiết kế
Liên kết website
Thống kê truy cập
Tổng truy cập 1.051.270
Truy cập hiện tại 503
Tìm kiếm
Thông tin đường phố Huế
Những chính sách có hiệu lực từ tháng 10/2013
Ngày cập nhật 09/10/2013
Ảnh minh họa

         Thêm trợ cấp cho nhà giáo đã nghỉ hưu; nâng mức trợ cấp người có công; sinh hoạt phí cho thanh niên xung phong vùng đặc biệt khó khăn; phụ cấp thâm niên cho công chức dự trữ quốc gia chuyên trách; phí kiểm định an toàn kỹ thuật và chất lượng linh kiện, xe cơ giới và các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng; quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân; quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hàng hải; vi phạm trong sở hữu công nghiệp…là những chính sách có hiệu lực từ tháng 10/2013.

 

 

Chế độ, chính sách

THÊM TRỢ CẤP CHO NHÀ GIÁO ĐÃ NGHỈ HƯU

Ngày 30/08/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 52/2013/QĐ-TTg quy định về chế độ trợ cấp với nhà giáo đã nghỉ hưu chưa được hưởng chế độ phụ cấp thâm niên trong lương hưu.

Theo đó, khoản trợ cấp này được chi trả một lần và bằng 10% mức lương hưu hàng tháng nhân với số năm trực tiếp giảng dạy tại cơ sở giáo dục công lập đã được tính hưởng chế độ hưu trí. Nhà giáo được hưởng chế độ trợ cấp khi đủ 03 điều kiện sau: Có thời gian trực tiếp giảng dạy, giáo dục, hướng dẫn thực hành tại các cơ sở giáo dục công lập từ đủ 05 năm trở lên; nghỉ hưu trong thời gian từ 01/01/1994 đến 31/05/2011; đang hưởng lương hưu tại thời điểm 01/01/2012.

Hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp gồm Tờ khai đề nghị hưởng trợ cấp và bản chụp quyết định hưởng chế độ hưu trí. Cơ quan Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết đề nghị trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và chi trả tiền trợ cấp vào tháng liền kề với tháng đã giải quyết việc hưởng trợ cấp.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013.

NÂNG MỨC TRỢ CẤP NGƯỜI CÓ CÔNG

Ngày 04/09/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2013/NĐ-CP quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.

Tại Nghị định này, Chính phủ quyết định nâng mức chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng lên 1.220.000 đồng (thay vì mức 1.110.000 đồng như hiện nay). Theo đó, mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với thân nhân 01 liệt sỹ cũng tăng lên mức 1.220.000 đồng/tháng, 02 liệt sỹ là 2.440.000 đồng/tháng, 03 liệt sỹ là 3.660.000 đồng/tháng (so với quy định hiện hành đối với thân nhân 01 liệt sỹ là 1.110.000 đồng/tháng, từ 02 liệt sỹ trở lên là 1.983.000 đồng/tháng); trợ cấp tiền tuất đối với vợ hoặc chồng liệt sỹ lấy chồng hoặc vợ khác (diện không hưởng thêm trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng) là 1.220.000 đồng/tháng; đối với cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, người có công nuôi dưỡng liệt sỹ... đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng cũng được hưởng thêm trợ cấp tiền tuất nuôi dưỡng là 976.000 đồng/tháng.

Với đối tượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, ngoài các khoản trợ cấp tiền tuất hàng tháng theo mức trợ cấp tiền tuất đối với nhân thân liệt sỹ nêu trên, còn được hưởng phụ cấp 1.023.000 đồng/tháng; người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình cũng được hưởng trợ cấp 1.220.000 đồng/tháng.

Ngoài ra, Nghị định cũng điều chỉnh tăng mức trợ cấp thương tật đối với thương binh, người hưởng chính sách như thương binh. Cụ thể, mức trợ cấp được điều chỉnh từ mức 748.000 - 3.560.000 đồng/tháng (tùy tỷ lệ suy giảm khả năng lao động) lên mức 822.000 - 3.913.000 đồng/tháng; mức trợ cấp thương tật đối với thương binh loại B hiện đang từ 618.000 - 2.945.000 đồng/tháng sẽ tăng lên 679.000 - 3.237.000 đồng/tháng.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 20/10/2013 và thay thế Nghị định số 47/2012/NĐ-CP ngày 28/05/2012. Các khoản trợ cấp, phụ cấp quy định tại Nghị định này được thực hiện kể từ ngày 01/07/2013.

THANH NIÊN XUNG PHONG VÙNG ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN HƯỞNG SINH HOẠT PHÍ 6 THÁNG ĐẦU

Nội dung này được quy định tại Thông tư liên tịch số 119/2013/TTLT-BTC-BNV ngày 26/08/2013 của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ về lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán khoản kinh phí hoạt động thường xuyên của các tổ chức thanh niên xung phong từ ngân sách Nhà nước.

Theo Thông tư này, Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các Ban Chỉ huy lực lượng thanh niên xung phong, Tổng đội thanh niên xung phong, Trung tâm, Trường Giáo dục lao động xã hội của thanh niên xung phong theo phân cấp ngân sách hoặc theo quy định hiện hành đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

Trong đó, Thông tư quy định chi tiết một số mức chi đối với đội viên thanh niên xung phong, cụ thể: Đội viên thanh niên xung phong được hưởng các khoản tiền công, chế độ, chính sách bảo hiểm theo pháp luật hiện hành và hợp đồng lao động; trong đó, mức tiền công còn được xác định theo giá tiền công lao động thực tế tại địa phương (do Sở Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Sở Tài chính trình UBND cấp tỉnh quy định).

Riêng với đội viên làm nhiệm vụ ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo khoản 2 Điều 1 Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ, ngoài các chế độ quy định tại Điều 16 Nghị định số 12/2011/NĐ-CP ngày 30/01/2011, đội viên còn được hưởng sinh hoạt phí 06 tháng đầu, kể từ khi tham gia thanh niên xung phong; mỗi tháng làm việc được hưởng sinh hoạt phí bằng 01 lần mức lương tối thiểu chung theo quy định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đội viên được cấp tiền tàu, xe đi đường để trở về địa phương và được hưởng trợ cấp 01 lần theo mức mỗi năm làm việc bằng 01 tháng tiền công hoặc tiền lương đang được hưởng…

Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013.

TÍNH PHỤ CẤP THÂM NIÊN CHO CÔNG CHỨC DỰ TRỮ QUỐC GIA CHUYÊN TRÁCH ĐỦ 5 NĂM

Ngày 21/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 94/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Dự trữ quốc gia.

Theo Nghị định này, công chức, viên chức, quân dân, công an nhân dân có thời gian làm công tác dự trữ quốc gia đủ 05 năm (60 tháng) thì được tính hưởng phụ cấp thâm niên bằng 5% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung; từ năm thứ 6 trở đi, cứ 12 tháng được tính thêm 1%. Trong đó, thời gian tính hưởng phụ cấp thâm niên bao gồm: Thời gian làm việc tại cơ quan quản lý dự trữ quốc gia chuyên trách, làm công tác dự trữ quốc gia thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và thời gian đi nghĩa vụ quân sự theo quy định mà trước đó đang được tính hưởng phụ cấp thâm niên…

Riêng thời gian tập sự, hợp đồng có thời hạn; nghỉ việc riêng không lương liên tục từ 01 tháng trở lên; nghỉ ốm đau, thai sản vượt quá thời hạn quy định; thời gian bị tạm đình chỉ công tác, tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử không được tính hưởng phụ cấp thâm niên.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng áp dụng mức phụ cấp ưu đãi bằng 25% đối với công chức thuộc các ngạch chuyên ngành dự trữ quốc gia; mức 15% đối với công chức thuộc các ngành khác trực tiếp làm nhiệm vụ tại Chi cục Dự trữ Nhà nước, Văn phòng Cục Dự trữ Nhà nước khu vực, người trực tiếp làm công tác dự trữ quốc gia tại các đơn vị dự trữ quốc gia trực thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng…

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/10/2013; thay thế các Nghị định số 196/2004/NĐ-CP ngày 02/12/2004, số 43/2012/NĐ-CP ngày 17/05/2012 và Quyết định số 77/2008/QĐ-TTg ngày 10/06/2008.

 

Giao thông

KHÔNG SỬ DỤNG HÈ PHỐ TỔ CHỨC ĐÁM CƯỚI QUÁ 48 GIỜ

Đây là một trong những quy định mới theo Nghị định số 100/2013/NĐ-CP ngày 03/09/2013 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Tại Nghị định này, Chính phủ bổ sung một số quy định về thời gian được phép sử dụng tạm thời một phần hè phố không vào mục đích giao thông; cụ thể: Việc sử dụng tạm hè phố để tổ chức đám cưới, đám tang và điểm trông, giữ xe phục vụ đám cưới, đám tang của hộ gia đình phải thông báo với UBND cấp xã sở tại và không được quá 48 giờ, trường hợp đặc biệt khi tổ chức đám tang cũng không được quá 72 giờ; việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật không được quá 30 ngày, trừ trường hợp được sự chấp thuận của Bộ Giao thông Vận tải (với đường quốc lộ) hoặc UBND cấp tỉnh (với đường địa phương)...

Chính phủ nêu rõ, vị trí hè phố được phép sử dụng tạm thời phải đáp ứng đủ các điều kiện như: Phần hè phố còn lại dành cho người đi bộ có bề rộng tối thiểu đạt 1,5m; hè phố có kết cấu chịu lực phù hợp với trường hợp được phép sử dụng tạm thời; đồng thời, việc sử dụng tạm một phần hè phố không được gây mất trật tự, an toàn giao thông.

Tương tự, đối với các vị trí lòng đường không thuộc tuyến quốc lộ đi qua đô thị cũng được phép sử dụng tạm thời làm điểm trông, giữ xe ô tô phục vụ các hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội trong thời gian tổ chức hoạt động đó; làm điểm trung chuyển rác thải sinh hoạt của doanh nghiệp vệ sinh môi trường đô thị từ 22 giờ đêm ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau nếu phần lòng đường còn lại dành cho các loại phương tiện có bề rộng tối thiểu bố trí đủ 02 làn xe cho 01 chiều đi...

Ngoài ra, Chính phủ cũng thu hẹp giới hạn hành lang an toàn đường bộ đối với đường cao tốc ngoài đô thị còn 17m tính từ đất của đường bộ ra mỗi bên hoặc 20m tính từ mép ngoài của kết cấu ngoài cùng ra mỗi bên với cầu cạn và hầm (thay vì yêu cầu rộng 47m tính từ đất của đường bộ trở ra hai bên như hiện nay).

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/10/2013.

 

Thuế-Phí-Lệ phí

PHÍ KIỂM ĐỊNH AN TOÀN KỸ THUẬT Ô TÔ TẢI TỐI ĐA LÀ 560.000 ĐỒNG/CHIẾC

Đây là quy định của Bộ Tài chính tại Thông tư số 114/2013/TT-BTC ban hành ngày 20/08/2013 về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí kiểm định an toàn kỹ thuật và chất lượng linh kiện, xe cơ giới và các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng.

Theo đó, khi kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới đang lưu hành, tổ chức, cá nhân phải đóng mức phí cơ bản là 560.000 đồng/xe đối với xe ô tô tải, đoàn xe ô tô có trọng tải trên 20 tấn và các loại xe ô tô chuyên dùng; 350.000 đồng/xe đối với xe ô tô tải, đoàn xe ô tô có trọng tải trên 7 tấn đến 20 tấn và các loại máy kéo; 350.000 đồng/xe đối với xe buýt, xe ô tô khách trên 40 ghế; 320.000 đồng/xe đối với xe ô tô khách từ 25 đến 40 ghế; 280.000 đồng/xe đối với xe ô tô khách từ 10 đến 24 ghế và 240.000 đồng/xe đối với xe ô tô dưới 10 chỗ ngồi, xe ô tô cứu thương…

Đồng thời, Thông tư này cũng quy định những xe cơ giới kiểm định không đạt tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phải bảo dưỡng sửa chữa để kiểm định lại những hạng mục không đạt tiêu chuẩn. Mức phí trong trường hợp này được quy định như sau: Những xe được kiểm định lại trong 01 ngày và số lần kiểm định lại không quá 02 lần được miễn phí; những xe kiểm định lại từ lần thứ 3 trở đi, mỗi lần kiểm định lại thu bằng 50% mức phí cơ bản; những xe được tiến hành kiểm định lại sau 01 ngày và trong thời hạn 07 ngày thì được tính phí từ ngày kiểm định lần đầu, mỗi lần kiểm định lại thu bằng 50% mức phí cơ bản; những xe phải kiểm định lại sau thời hạn 07 ngày được tính như kiểm định lần đầu.

Ngoài ra, trong trường hợp kiểm định xe cơ giới để cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tạm thời thì mức thu bằng 100% mức phí cơ bản; kiểm định mang tính giám định kỹ thuật, đánh giá chất lượng theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân được thu với mức phí thỏa thuận nhưng không được vượt quá 03 lần mức phí cơ bản.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013 và bãi bỏ các quy định trước đây về mức thu phí kiểm định an toàn kỹ thuật và chất lượng xe cơ giới và các loại thiết bị, xe máy chuyên dùng.

LỆ PHÍ DÁN NHÃN BĂNG, ĐĨA HÌNH CÓ CHƯƠNG TRÌNH LÀ 500 ĐỒNG/NHÃN

Mức phí này được quy định tại Thông tư số 121/2013/TT-BTC ngày 28/08/2013 của Bộ Tài chính về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp và dãn nhãn kiểm soát băng, đĩa hình có chương trình; phí thẩm định chương trình trên băng, đĩa, phần mềm và trên vật liệu khác.

Cụ thể, tổ chức, cá nhân khi được cơ quan có thẩm quyền cấp và dán nhãn kiểm soát vào băng, đĩa có chương trình phải nộp lệ phí với mức 500 đồng/nhãn; khi thẩm định chương trình ca múa nhạc, sân khấu ghi trên băng đĩa thì mức phí là 150.000 đồng/block (mỗi block có độ dài 15 phút); chương trình ghi đến 50 bài hát, bản nhạc trên đĩa nén, ổ cứng, phần mền và các vật liệu khác thì nộp mức phí là 1,5 triệu đồng/chương trình; trên 50 bài hát, bản nhạc thì tăng thêm 50.000 đồng/bài hát, bản nhạc nhưng tổng mức phí không quá 4 triệu đồng/chương trình; chương trình ca múa nhạc bổ sung mới vào chương trình ca múa nhạc đã được thẩm định ghi trên đĩa nén, ổ cứng, phần mềm và các vật liệu thì mức phí là 50.000 đồng/bài hát, bản nhạc được bổ sung mới và tổng mức phí không quá 4 triệu đồng/chương trình.

Riêng đối với các chương trình ca múa nhạc, sân khấu được sản xuất trong nước ghi trên băng, đĩa phần mềm và trên các vật liệu khác thì chỉ thu phí một lần đầu khi thẩm định để cấp giấy phép phát hành, không thu phí khi sửa chữa, thẩm định lại và khi cấp giấy phép sản xuất. Tương tự, các chương trình ca múa nhạc, sân khấu được nhập khẩu thì chỉ thu phí một lần đầu khi thẩm định để cấp giấy phép nhập khẩu, không thu phí khi phải sửa chữa, thẩm định lại và khi cấp giấy phép phát hành.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013 và thay thế đối Quyết định số 37/2005/QĐ-BTC và Thông tư số 21/2009/TT-BTC ngày 04/02/2009.

ÁP THUẾ NHẬP KHẨU 10% CHO KEM BẢO VỆ DA

Ngày 27/08/2013,  Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 120/2013/TT-BTC sửa đổi, bổ sung mô tả hàng hóa của nhóm 9825 thuộc Chương 98 quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi ban hành kèm theo Thông tư 193/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012.

Tại Thông tư này, Bộ Tài chính bổ sung mặt hàng “Kem hỗ trợ chức năng bảo vệ da, gel làm giảm sẹo như Xclair, Atopiclair, Dermatix” vào nhóm 9825 quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi (theo quy định hiện hành, nhóm 9825 chỉ gồm chất làm đầy da Restylane); đồng thời quy định rõ, mặt hàng này phải đáp ứng hồ sơ về trang thiết bị y tế nhập khẩu quy định tại Thông tư số 24/2011/TT-BYT ngày 21/06/2011.

Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi áp dụng với nhóm 9825 vẫn theo quy định hiện hành là 10%.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/10/2013.

PHÍ THẨM ĐỊNH PHIM TRUYỆN LÀ 1,8 TRIỆU ĐỒNG/TẬP

Ngày 28/08/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 122/2013/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định kịch bản phim, phim, chương trình nghệ thuật biểu diễn; lệ phí cấp Giấy phép đủ điểu kiện kinh doanh sản xuất phim, cấp Giấy phép đặt văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam.

Theo Thông tư này, kể từ ngày 15/10/2013, phí thẩm định phim truyện có độ dài đến 100 phút (tương đương 01 tập phim) là 1,8 triệu đồng; độ dài từ 101 - 150 phút (tương đương 1,5 tập phim) là 2,7 triệu đồng; độ dài từ 151 - 200 phút tính thành 02 tập; phí thẩm định phim ngắn (tài liệu, khoa học, hoạt hình) có độ dài đến 60 phút là 1,1 triệu đồng và độ dài từ 61 phút trở lên được tính như phim truyện. Tương tự, phí thẩm định kịch bản phim truyện là 3,6 triệu đồng đối với 01 tập phim; 5,4 triệu đồng đối với 1,5 tập phim; phí thẩm định kịch bản phim ngắn là 1,5 triệu đồng đối với phim có độ dài đến 60 phút...

Đồng thời, đối với một chương trình (vở diễn) biểu diễn nghệ thuật có độ dài đến 50 phút thì mức phí là 1 triệu đồng và lần lượt tăng thêm 500.000 đồng đối với chương trình (vở diễn) biển diễn nghệ thuật có độ dài từ 51 đến 100 phút; từ 101 đến 150 phút; từ 151 đến 200 phút và từ 201 phút trở lên. Riêng các chương trình, vở diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị do các cơ quan chức năng quản lý nghệ thuật cho phép thì không thu phí.

Ngoài ra, Thông tư cũng chỉ rõ, lệ phí cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất kinh doanh phim và cấp Giấy phép mở văn phòng đại diện của cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam đều được áp mức phí là 600.000 đồng/giấy.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013; thay thế Quyết định 171/2000/QĐ-BTC ngày 27/10/2000 và Thông tư số 08/2004/TT-BTC ngày 09/02/2004.

Vi phạm hành chính

BÁN LẺ XĂNG DẦU KHÔNG ĐÚNG GIÁ NIÊM YẾT PHẠT ĐẾN 10 TRIỆU

Ngày 27/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định 97/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng.

Nghị định này chỉ rõ, hành vi không niêm yết giá bán lẻ xăng dầu hoặc niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng, gây nhầm lẫn cho khách hàng; niêm yết giá bán lẻ xăng dầu không đúng với giá do thương nhân đầu mối quy định hoặc bán không đúng giá niêm yết do thương nhân đầu mối quy định sẽ bị phạt từ 05 - 10 triệu đồng; đặc biệt, hành vi tự điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu không đúng thời điểm thương nhân đầu mối quy định sẽ bị phạt từ 10 - 20 triệu đồng.

Đồng thời, cửa hàng bán lẻ xăng dầu còn bị phạt từ 03 - 05 triệu đồng trong trường hợp cán bộ quản lý và nhân viên trực tiếp kinh doanh xăng dầu không được đào tạo nghiệp vụ về kỹ thuật an toàn phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường; từ 05 - 10 triệu đồng nếu địa điểm của cửa hàng bán lẻ xăng dầu không đúng địa điểm ghi trong Giấy chứng nhận đủ điểu kiện kinh doanh xăng dầu; từ 20 - 30 triệu đồng trong trường hợp kinh doanh xăng dầu khi không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu hoặc sử dụng Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu giả...

Đặc biệt, Nghị định này còn đưa ra mức phạt tiền tối đa đến 01 tỷ đồng, áp dụng đối với cá nhân có hành vi xâm phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nhằm nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu khí.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/10/2013 và thay thế Nghị định 145/2006/NĐ-CP ngày 30/11/2006.

LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU BỎ TRỐN BỊ PHẠT ĐẾN 100 TRIỆU

Đây là một trong nội dung quy định tại Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/08/2013 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Theo Nghị định này, người lao động đi làm việc ở ngước ngoài có thể bị phạt tiền từ 80 - 100 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Ở lại nước ngoài trái phép sau khi hết hạn Hợp đồng lao động, hết hạn cư trú; bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng; sau khi nhập cảnh nước tiếp nhận lao động mà không đến nơi làm việc theo hợp đồng; lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc, lừa gạt người lao động Việt Nam ở lại nước ngoài trái quy định. Ngoài phạt tiền, người lao động vi phạm còn bị buộc phải về nước; cấm đi làm việc ở nước ngoài trong thời hạn 02 năm hoặc 05 năm...

Bên cạnh đó, doanh nghiệp tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng sẽ bị phạt tiền từ 20 - 40 triệu đồng nếu có hành vi không báo cáo danh sách lao động xuất cảnh với cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài theo quy định hoặc không phối hợp với các cơ quan này trong việc quản lý và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài.

Đối với việc giao kết hợp đồng lao động nói chung, người sử dụng lao động có thể bị phạt tiền từ 20 - 25 triệu đồng nếu có hành vi giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động hoặc buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động; bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng nếu yêu cầu người lao động thử việc quá 01 lần, thử việc quá thời gian quy định hoặc trả lương thử việc thấp hơn 85% mức lương của công việc đó…

Ngoài ra, Chính phủ cũng quy định các mức xử phạt đối với các vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; về việc cho thuê lại lao động; về lao động nữ…, cụ thể: phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng nếu người sử dụng lao động không cho lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi nghỉ 60 phút/ngày hoặc sa thải, đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản…

Nghị định này có hiệu lực thi hành kề từ ngày 10/10/2013.

VI PHẠM TRONG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP PHẠT ĐẾN 500 TRIỆU

Đây là mức phạt được quy định tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/08/2013 của Chính phủ về việc về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

Theo đó, mức phạt tiền tối đa áp dụng đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp của cá nhân là 250 triệu đồng; đối với cùng 01 hành vi vi phạm thì mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần và tối đa là 500 triệu đồng.

Cụ thể: Phạt từ 03 - 05 triệu đồng đối với hành vi sửa chữa, tẩy xóa làm sai lệch nội dung văn bằng bảo hộ hoặc tài liệu chứng minh quyền sở hữu công nghiệp; từ 05 - 10 triệu đồng đối với hành vi cung cấp thông tin, chứng cứ sai lệch trong quá trình tiến hành các thủ tục xác nhận, công nhận, chứng nhận, sửa đổi, gia hạn, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ hoặc đề nghị cơ quan Nhà nước ra quyết định buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế...

Đối với các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế bố trí như: Bán, chào hàng, vận chuyển, tàng trữ, trưng bày sản phẩm xâm phạm; khai thác công dụng sản phẩm xâm phạm hoặc sản phẩm được sản xuất từ quy trình xâm phạm vì mục đích kinh doanh sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 0,5 - 02 triệu đồng nếu giá trị hàng hóa vi phạm đến 03 triệu đồng; phạt từ 02 - 04 triệu nếu giá trị hàng hóa vi phạm từ trên 03 - 05 triệu đồng...; và phạt từ 200 - 250 triệu đồng nếu giá trị hàng hóa vi phạm trên 500 triệu đồng.

Tương tự đối với các hành vi bán, chào hàng, vận chuyển, trưng bày để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý hoặc thuê người khác thực hiện các hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 04 - 08 triệu đồng nếu giá trị hàng hóa vi phạm đến 05 triệu; phạt từ 08 - 12 triệu đồng nếu giá trị hàng hóa từ trên 05 - 10 triệu đồng...

Bên cạnh hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, các hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả như: Tịch thu tang vật, phương tiên vi phạm; tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu, thẻ giám định viên hoặc đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh từ 01 - 03 tháng...

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013 và thay thế Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/09/2010.

VI PHẠM TRONG GIAO THÔNG HÀNG HẢI BỊ XỬ PHẠT ĐẾN 100 TRIỆU ĐỒNG

Đây là nội dung của Nghị định 93/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 20/08/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa.

Cụ thể, Nghị định này chỉ rõ, xử phạt từ 0,2 - 0,5 triệu đồng đối với hành vi vào, rời vùng đất cảng hoặc lên tàu thuyền không được phép của cơ quan hoặc người có thẩm quyền; từ 3 - 5 triệu đồng đối với hành vi sử dụng người lao động không có giấy phép, chứng chỉ hành nghề; từ 30 - 60 triệu đồng đối với hành vi khai thác cảng không đúng với chức năng của cảng hoặc cho tàu thuyền cập cầu cảng khi cầu cảng chưa được phép đưa vào khai thác, sử dụng… Đặc biệt, xử phạt từ 80 - 100 triệu đồng đối với hành vi bên thuê lại cho thuê kết cấu hạ tầng bến cảng, cầu cảng được thuê; từ 50 - 100 triệu đồng đối với hành vi xả nước hoặc chất thải có lẫn hóa chất độc hại xuống cầu cảng hoặc vùng nước cảng biển…

Ngoài hình thức xử phạt bằng tiền, cá nhân hoặc tổ chức có hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung, như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn từ 1 - 24 tháng; đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 1- 24 tháng; tịch thu phương tiện, tang vật vi phạm…

Cũng theo Nghị định này, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa là 01 năm. Riêng đối với hành vi vi phạm về xây dựng cảng biển, công trình hàng hải và công trình thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa, môi trường, xuất cảnh, nhập cảnh của tàu thuyền viên và hành khách có thời hiệu xử phạt là 02 năm.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013.

CUNG CẤP THÔNG TIN DỰ ĐOÁN TRƯỚC KẾT QUẢ XỔ SỐ: PHẠT ĐẾN 100 TRIỆU

Ngày 28/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 98/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số.

Theo Nghị định này, mức phạt tiền đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số tối đa là 100 triệu đồng, đối với tổ chức tối đa là 200 triệu đồng; mức xử phạt đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền cá nhân đối với cùng hành vi vi phạm.

Trong đó, mức phạt từ 180 - 200 triệu đồng được áp dụng đối với hành vi cố ý thông tin kết quả trúng thưởng sai lệch, không đúng so với biên bản xác nhận của Hội đồng giám sát xổ số; các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới Việt Nam không đáp ứng đủ các điều kiện cung cấp qua biên giới theo quy định; tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới không có trụ sở chính tại quốc gia có ký kết điều ước quốc tế về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới với Việt Nam hoặc không thông qua doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam...

Mức phạt tối đa từ 90 - 100 triệu đồng được áp dụng với các cá nhân có hành vi vi phạm trong kinh doanh bảo hiểm như: chuyên gia tính toán của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không thực hiện quy định về lập dự phòng nghiệp vụ cho các hợp đồng bảo hiểm, tách quỹ và phân chia thặng dư hàng năm của quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm; có hành vi gian dối, giả mạo tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm đã nhận tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm; từ 80 - 100 triệu đồng đối với hành vi cung cấp thông tin dự đoán trước kết quả xổ số...

Ngoài hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, các cá nhân, tổ chức vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như: Tước quyền sử dụng Chứng chỉ đại lý bảo hiểm hoặc Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xổ số có thời hạn; đình chỉ hoạt động có thời hạn và tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc tiêu hủy tài liệu gian dối, giả mạo...

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2013 và thay thế các Nghị định số 41/2009/NĐ-CP ngày 05/05/2009, số 105/2010/NĐ-CP ngày 27/10/2010.

 Hành chính

THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO TRONG CÔNG AN NHÂN DÂN

Ngày 12/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2013/NĐ-CP quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân.

Theo Nghị định này, công dân, cán bộ, chiến sỹ Công an có quyền tố cáo với cơ quan, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong Công an nhân dân về hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) của cán bộ, chiến sỹ Công an trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh trật tự theo quy định.

Trong đó, thẩm quyền giải quyết tố cáo những hành vi VPPL của cán bộ, chiến sỹ Công an trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ được quy định cụ thể như sau: Trưởng Công an phường, thị trấn, Trưởng đồn, trạm Công an (gọi chung là cấp phường) giải quyết tố cáo đối với cán bộ, chiến sỹ thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình, trừ Phó Trưởng Công an cấp phường; Trưởng Công an cấp huyện giải quyết tố cáo đối với Trưởng, Phó Trưởng Công an cấp phường và cán bộ, chiến sỹ giữ chức vụ từ Đội trưởng trở xuống; Giám đốc Công an cấp tỉnh giải quyết tố cáo đối với Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng đơn vị cấp tương đương thuộc Công an cấp tỉnh và Trưởng, Phó Trưởng Công an cấp huyện…

Thủ trưởng Công an các cấp có trách nhiệm tiếp nhận hoặc phân công cán bộ tiếp nhận tố cáo của công dân, cán bộ, chiến sỹ Công an; bố trí trụ sở hoặc địa điểm, cán bộ tiếp dân để tiếp nhận tố cáo, kiến nghị phản ánh liên quan đến tố cáo.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi VPPL bị tố cáo, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm công bố công khai kết luận tại cuộc họp cơ quan, đơn vị nơi cán bộ, chiến sỹ đó công tác; niêm yết tại Trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2013.

 

Cơ cấu tổ chức

ĐỔI TÊN CỤC CẢNH SÁT BIỂN THÀNH BỘ TƯ LỆNH CẢNH SÁT BIỂN

Ngày 27/08/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 86/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.

Nghị định này quy định, từ ngày 12/10/2013, Cục Cảnh sát biển chính thức đổi tên gọi thành Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển. Theo đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu có hình quốc huy, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, có trụ sở tại Thành phố Hà Nội; kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp và được ghi riêng một mục trong tổng kinh phí hoạt động của

Bộ Quốc phòng; Tư lệnh, Chính ủy, Phó Chính ủy và các phó Tư lệnh Cảnh sát biển sẽ do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòngNgoài ra, tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cũng đổi thành Vietnam Coast Guard, thay vì tên gọi Vietnam Marine Police như trước đây. Cảnh hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, cảnh phục và lễ phục của lực lượng Cảnh sát biển Việt nam sẽ do Thủ tướng Chính phủ quy định.

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 12/10/2013.

Bảo hiểm

TRIỂN KHAI SẢN PHẨM BẢO HIỂM HƯU TRÍ PHẢI CÓ VỐN CHỦ SỞ HỮU TỪ 1 NGHÌN TỶ

Ngày 20/08/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 115/2013/TT-BTC về việc hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện.

Thông tư này quy định khi triển khai sản phẩm bảo hiểm hưu trí, doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện sau: Vốn chủ sở hữu không thấp hơn 1.000 tỷ đồng; biên khả năng thanh toán cao hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu 300 tỷ đồng; thiết lập quỹ hưu trí tự nguyện theo quy định (duy trì tối thiểu 200 tỷ đồng); tối thiểu 05 cán bộ trực tiếp quản lý quỹ hưu trí tự nguyện có ít nhất 05 năm kinh nghiệm quản lý quỹ hưu trí hoặc quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm; sản phẩm bảo hiểm hưu trí phải được Bộ Tài chính phê chuẩn...

Đồng thời, đại lý bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm triển khai sản phẩm bảo hiểm hưu trí phải có chứng chỉ do Bộ Tài chính cấp; không vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian hành nghề đại lý và có ít nhất 06 tháng kinh nghiệm hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ liên tục hoặc 06 tháng làm việc liên tục trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.

Tại Thông tư này, Bộ Tài chính cũng giải thích rõ bảo hiểm hưu trí là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ do doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nhằm cung cấp thu nhập bổ sung cho người được bảo hiểm khi hết tuổi lao động; trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm, người được bảo hiểm bắt đầu nhận quyền lợi bảo hiểm hưu trí khi đạt đến tuổi theo thoả thuận tại hợp đồng bảo hiểm, nhưng không dưới 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam...

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/10/2013.

 Y tế-Sức khỏe

QUY ĐỊNH HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG THUỐC

Ngày 13/08/2013, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 23/2013/TT-BYT hướng dẫn hoạt động gia công thuốc.

Thông tư này quy định bên đặt gia công (bên đứng tên nộp đơn đề nghị cấp giấy phép về lưu hành gia công thuốc) phải là cơ sở kinh doanh thuốc hợp pháp của Việt Nam; cơ sở sản xuất, kinh doanh thuốc nước ngoài có Giấy phép hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam, có thuốc đã được Bộ Y tế Việt Nam cấp số đăng ký còn hiệu lực hoặc là chủ sở hữu bằng sáng chế hoặc đề tài nghiên cứu đã được nghiệm thu hoặc tài liệu nghiên cứu sản phẩm tại chính cơ sở đặt gia công đối với thuốc chưa có số đăng ký lưu hành tại Việt Nam đặt sản xuất gia công.

Bên nhận gia công có thể bao gồm nhiều nhà sản xuất, mỗi nhà sản xuất tham gia một, một số hoặc nhiều công đoạn sản xuất và phải đáp ứng các điều kiện sau: Đối với thuốc hóa dược, thuốc từ dược liệu (trừ thuốc đông y), vắc xin, huyết thanh chứa kháng thể, sinh phẩm y tế, cơ sở sản xuất phải có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc và giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn "Thực hành tốt sản xuất thuốc" (GMP) có dạng bào chế phù hợp với thuốc dự định gia công; đối với sinh phẩm chẩn đoán In vitro, cơ sở sản xuất có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc và giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn GMP hoặc Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 13485:2004 hoặc tiêu chuẩn khác tương đương có dạng bào chế phù hợp với thuốc dự định gia công.

Cũng theo hướng dẫn tại Thông tư này, thuốc đã có số lưu hành tại Việt Nam được sản xuất gia công một, một số hoặc toàn bộ công đoạn của quá trình sản xuất ở một hoặc một số nhà sản xuất gia công; thuốc chưa có số đăng ký lưu hành tại Việt Nam được sản xuất gia công toàn bộ công đoạn của quá trình sản xuất và chỉ được đặt tại một nhà sản xuất gia công.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/2013.

QUY ĐỊNH GIỚI HẠN 59 HOẠT CHẤT THUỐC THÚ Y TRONG THỰC PHẨM

Ngày 14/08/2013, Bộ Y tế đã ban hành Quy định mức giới hạn tối đa dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, sơ chế, chế biến, kinh doanh, nhập khẩu các loại thực phẩm tại Thông tư 24/2013/TT-BYT.

Theo đó, Thông tư này quy định mức giới hạn tối đa dư lượng của 59 hoạt chất thuốc thú y có trong thực phẩm, cụ thể như: Hoạt chất Amoxicillin (thuốc kháng khuẩn) có mức giới hạn tối đa dư lượng cho phép là 50 µg/kg đối với thịt trâu, thịt bò, thịt lợn; hoạt chất Cyhalothrin (thuốc trừ sâu) có mức giới hạn tối đa cho phép là 20 µg/kg đối với thịt trâu, thịt bò, thịt lợn và 30 µg/l đối với sữa bò; hoạt chất Ractopamine (thuốc kích thích tăng trưởng) có mức giới hạn tối đa cho phép là 10 µg/kg đối với thịt trâu, thịt bò, thịt lợn, mỡ lợn...

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/10/2013 và bãi bỏ Phần 2 “Giới hạn tối đa dư lượng thuốc thú y trong thực phẩm” ban hành kèm theo Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT ngày 19/12/2007.

Tài chính-Ngân hàng-Tín dụng

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC XÁC NHẬN KHOẢN VAY NƯỚC NGOÀI TRONG 15 NGÀY

Ngày 24/09/2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 22/2013/TT-NHNN hướng dẫn thủ tục đăng ký, đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài và khoản phát hành trái phiếu quốc tế được Chính phủ bão lãnh.

Theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước tại Thông tư này, trường hợp có thay đổi bất kỳ nội dung nào liên quan đến khoản vay nước ngoài, khoản phát hành trái phiếu quốc tế được nêu tại văn bản của NHNN xác nhận đăng ký khoản vay nước ngoài, khoản phát hành trái phiếu quốc tế, bên đi vay phải có trách nhiệm thực hiện đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài, khoản vay phát hành trái phiếu quốc tế với Ngân hàng Nhà nước.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký thỏa thuận thay đổi hoặc ngày Bộ Tài chính phát hành thư và trước khi thực hiện nội dung thay đổi, bên đi vay gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến NHNN 01 bộ hồ sơ gồm: Đơn đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài hoặc Đơn đăng ký thay đổi khoản phát hành trái phiếu quốc tế; bản sao tiếng nước ngoài và bản dịch tiếng Việt các thỏa thuận thay đổi đã ký trong trường hợp các nội dung thay đổi cần được thỏa thuận giữa các bên; văn bản của bên đi vay giải trình rõ về nội dung thay đổi khoản vay nước ngoài, khoản phát hành trái phiếu quốc tế…

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ của bên đi vay, NHNN gửi văn bản xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài, khoản phát hành trái phiếu quốc tế. Trường hợp từ chối xác nhận đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài, khoản phát hành trái phiếu, NHNN có văn bản nêu rõ lý do.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2013 và bãi bỏ các quy định tại Mục I, Mục II, Mục III, Mục IV Chương III của Thông tư 09/2004/TT-NHNN ngày 21/12/2004.

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI LẬP CHI NHÁNH Ở NƯỚC NGOÀI PHẢI CÓ TÀI SẢN 100.000 TỶ

Đây là yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Thông tư số 21/2013/TT-NHNN ngày 09/09/2013 quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại.

Cụ thể, ngân hàng thương mại thành lập chi nhánh ở nước ngoài, ngân hàng 100% vốn ở nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện như: Có giá trị thực của vốn điều lệ tại thời điểm ngày 31/12 của năm liền kề không thấp hơn mức vốn pháp định; tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng liên tục trong 12 tháng trước tháng đề nghị; tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ tại thời điểm ngày 31/12 của năm trước liền kề không vượt quá 3%; có thời gian hoạt động tối thiểu là 03 năm tính từ ngày khai trương hoạt động đến thời điểm đề nghị; có tổng tài sản Có đạt 100.000 tỷ đồng trở lên theo báo cáo tài chính hợp nhất được kiểm toán tại thời điểm ngày 31/12 của năm trước liền kề năm đề nghị; hoạt động kinh doanh có lãi theo các báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tài chính riêng lẻ được kiểm toán trong 03 năm trước liền kề năm đề nghị…

Thông tư cũng chỉ rõ, ngân hàng thương mại có thời gian hoạt động dưới 12 tháng được thành lập không quá 03 chi nhánh, các chi nhánh không được thành lập trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; có thời gian hoạt động từ 12 tháng trở lên được thành lập không quá 05 chi nhánh trong 01 năm tài chính. Riêng tại mỗi khu vực nội thành TP. Hà Nội hoặc TP. Hồ Chí Minh, ngân hàng thương mại chỉ được thành lập tối đa 10 chi nhánh.

       Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23/10/2013, thay thế Quyết định 13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008.

Tin mới
Các tin khác
Xem tin theo ngày